Xu Hướng 12/2023 # Phát Hiện Loài Mèo Hoang Dã Lớn Ở Rừng Aberdeenshire # Top 14 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Phát Hiện Loài Mèo Hoang Dã Lớn Ở Rừng Aberdeenshire được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Viec.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Một trong những loài mèo hoang dã lớn nhất thế giới với chiều dài lên đến 1,2m đã được ghi hình lại một khu rừng ở Scotland.

Một trong những loài mèo hoang dã lớn nhất do thế giới ghi nhận được cho là được những nhà thực địa ở Rừng Clashindarroch, Aberdeenshire phát hiện.

Được đặt biệt danh là Quái thú Clashindarroch, hình ảnh loài mèo này được máy quay ghi lại và ước tính dài 1,2m từ mũi đến đuôi.

Đoạn băng được thu thập như một phần của dự án bảo tồn mèo hoang dã Scotland được thực hiện ở khắp vùng Highlands.Những cái bẫy điều khiển từ xa dùng thức ăn hoặc mùi hương làm mồi nhử, và bất cứ khi nào có thứ gì đó đi ngang qua trước nó, máy quay sẽ quay phim lại.

Kev Bell, một nhà thực địa ở Wildcat Haven, cho biết: “Tôi rất may mắn được xem đoạn băng của kha khá những con mèo lảng vảng như những bóng ma này; ở Clashindarroch này có khoảng 10 – 15 con. Tôi không thể tin vào mắt mình khi lần đầu tiên thấy con mèo này, nó rất lớn, một loài động vật kì diệu”.

Những loài động vật hiếm nhất

Công nghệ này được sử dụng trên khắp thế giới để xác định số lượng những loài hiếm và khó bắt gặp như loài mèo hoang dã.

Kev cho hay: “Máy quay cung cấp cho chúng ta những nhận thức tuyệt vời về loài mèo hoang dã vô giá này, bằng cách nào đó chúng đã sống sót ở đây và tránh sự lai giống. Có người nói rằng loài mèo hoang dã không còn tồn tại nữa nhưng chúng tôi biết là không phải và những loài mèo hoang dã như “Quái thú” đã chứng minh điều đó”.

Steve Sleigh, một nhà thực địa khác ở Wildcat Haven, bổ sung: “Những loài mèo này là một phần không thể thiếu của thiên nhiên hoang dã và hệ sinh thái Scotland, và chúng phải được bảo vệ dù sinh sống ở đâu; chúng là một trong những loài động vật hiếm nhất trên thế giới”.

Dự án này gồm việc triệt sản những con mèo nhà hung dữ trên khắp hơn 1.000 dặm vuông của vùng Tây Highlands. Mục đích của việc này là để tránh việc chuột và thỏ bị ăn thịt quá nhiều, nếu không sẽ ảnh hưởng đến sự sinh tồn của những loài mèo hoang dã ở khu vực này.

Quái thú Clashindarroch sẽ tiếp tục được theo dõi cũng như số lượng mèo hoang dã ở Caithness và Lochaber, nơi dự án này bắt đầu từ một thập kỉ trước.

Lộc Xuân/Dân Trí (Theo BBC News)

Phát Hiện Mèo Rừng Quý Hiếm, Có Bộ Lông Tuyệt Đẹp Ngay Tại Tp Hcm

Mèo rừng này được tìm thấy trong quá trình công nhân Khu Y tế kỹ thuật cao Hoa Lâm – Shangrila (phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, TP HCM) dọn dẹp mặt bằng. Mèo nặng khoảng 5 kg, dài khoảng 55 cm. Sau khi bắt được nó, các công nhân giao lại cho chủ đầu tư Khu Y tế kỹ thuật cao Hoa Lâm – Shangrila.

Theo TS Bạch Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Cứu hộ – Bảo tồn và Phát triển sinh vật Vườn Quốc gia Cát Tiên, mèo rừng Việt Nam được đánh giá là một trong những loài khó tìm nhất trên thế giới. Con mèo được công nhân phát hiện là mèo gấm, còn gọi là mèo cẩm thạch. Loài mèo này thường sinh sống ở các khu rừng Đông Nam Á, có họ hàng với báo lửa. Chúng cùng với mèo lửa xứ Borneo Pardofelis badia hợp thành chi pardofelis.

Cũng theo TS Bạch Thanh Hải, kích thước mèo gấm tương đương mèo nhà, dài khoảng 60 cm, trọng lượng từ 2-5kg nhưng điểm khác biệt là đuôi khá dài, lên đến 55 cm.

Điểm đặc biệt của mèo gấm là bộ lông tuyệt đẹp, cằm và dưới môi có màu trắng hoặc vàng nhạt, sau tai có đốm trắng. Mèo này có lớp lông dày, mịn, màu xám xanh hoặc xám nâu, nhiều hoa văn cẩm thạch xung quanh, chân và đuôi có nhiều đốm thẫm.

Quỹ Thế giới bảo vệ động vật hoang dã (WWF) cảnh báo mèo rừng Việt Nam đang đứng trước nguy cơ suy giảm về số lượng. Nguyên nhân là vì chúng có bộ lông sặc sỡ nên nhiều người tìm cách săn bắt để lấy lông hoặc làm thú nuôi. Ngoài ra, nạn phá rừng xảy ra càng nhiều làm cho môi trường sống của mèo rừng cũng bị thu hẹp.

Hiện nay, số lượng mèo gấm trên thế giới chỉ còn khoảng 10.000 con và chúng vẫn đang tiếp tục giảm. Vì vậy, mèo gấm ở Việt Nam đã được xếp vào sách đỏ, cần bảo vệ khẩn cấp.

Tin-ảnh: Hồng Thúy

Các Loài Thú To Lớn

Cầy báo hay Fossa (/ˈfɒsə/ hay /ˈfuːsə/; tiếng Malagasy: ; danh pháp hai phần: Cryptoprocta ferox) là một loài thú ăn thịt, hình dạng giống mèo. Đây là loài đặc hữu tại Madagascar, thuộc họ Eupleridae, bộ Ăn thịt, có họ hàng gần với họ Cầy mangut (Herpestidae). Phân loại sinh học loài này đã gây tranh cãi do đặc điểm cơ thể tương đồng với những loài mèo, song đặc điểm khác chỉ ra mối quan hệ gần với họ Cầy (nhất là cầy hương và loài họ hàng). Phân loại của loài, cùng với những loài ăn thịt khác tại Madagascar, ảnh hưởng đến giả thuyết rằng loài hữu nhũ ăn thịt đã xâm chiếm đảo Madagascar bao nhiêu lần. Nghiên cứu về di truyền đã chứng minh rằng Fossa và tất cả động vật ăn thịt khác tại Madagascar có họ hàng gần nhất với nhau (định hình nên một nhánh sinh học, được công nhận thành họ Eupleridae), động vật ăn thịt hiện tại đã xâm chiếm hòn đảo này vào dịp quanh khoảng 18 đến 20 triệu năm về trước.Fossa là thú ăn thịt lớn nhất trên đảo Madagascar và được so sánh như một con báo sư tử nhỏ. Fossa trưởng thành có chiều dài từ đầu đến hết thân 70–80 cm (28–31 in) và cân nặng từ 5,5–8,6 kg (12–19 lb), con đực lớn hơn so với con cái. Sở hữu móng vuốt bán co rút và mắt cá chân linh hoạt cho phép Fossa leo trèo lên xuống cây dễ dàng, đồng thời hỗ trợ nhảy từ cây này sang cây khác. Fossa là loài duy nhất trong họ có biểu hiện khác biệt về cơ quan sinh dục ở hình thái ngoài, giống đặc điểm của mèo và linh cẩu.Loài này phân bố rộng, mặc dù mật độ quần thể thường thấp. Chúng thường sinh sống đơn độc trong rừng rậm, tích cực săn mồi cả ngày lẫn đêm. Hơn 50% chế độ ăn uống gồm vượn cáo, loài linh trưởng đặc hữu tìm được trên đảo; tenrec, gặm nhấm, thằn lằn, chim và động vật khác cũng là con mồi của Fossa. Giao phối thường diễn ra trên cây, trên cành cây ngang, có thể kéo dài vài giờ. Lứa đẻ dao động từ một đến sáu con non, khi sinh ra mù và không răng. Fossa sơ sinh cai sữa sau 4,5 tháng và độc lập sau một năm. Thuần thục sinh dục diễn ra khoảng 3 đến 4 tuổi, tuổi thọ nuôi nhốt đạt 20 năm. Loài Fossa được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế liệt kê là “loài sắp nguy cấp”. Chúng thường khiến người Madagascar lo sợ và thường được bảo vệ nhờ tục kiêng kỵ fady. Mối đe dọa lớn nhất đến loài này là mất môi trường sống.

Phát Hiện Mèo Rừng Quý Hiếm, Có Bộ Lông Tuyệt Đẹp Ngay Tại

Con mèo rừng thuộc loại quý hiếm này được phát hiện trong khu đất tại Khu Y tế kỹ thuật cao Hoa Lâm – Shangrila (quận Bình Tân, TP HCM), sau đó được thả về rừng Nam Cát Tiên.

Mèo rừng này được tìm thấy trong quá trình công nhân Khu Y tế kỹ thuật cao Hoa Lâm – Shangrila (phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân, TP HCM) dọn dẹp mặt bằng. Mèo nặng khoảng 5 kg, dài khoảng 55 cm. Sau khi bắt được nó, các công nhân giao lại cho chủ đầu tư Khu Y tế kỹ thuật cao Hoa Lâm – Shangrila.

Theo TS Bạch Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Cứu hộ – Bảo tồn và Phát triển sinh vật Vườn Quốc gia Cát Tiên, mèo rừng Việt Nam được đánh giá là một trong những loài khó tìm nhất trên thế giới. Con mèo được công nhân phát hiện là mèo gấm, còn gọi là mèo cẩm thạch. Loài mèo này thường sinh sống ở các khu rừng Đông Nam Á, có họ hàng với báo lửa. Chúng cùng với mèo lửa xứ Borneo Pardofelis badia hợp thành chi pardofelis.

Cũng theo TS Bạch Thanh Hải, kích thước mèo gấm tương đương mèo nhà, dài khoảng 60 cm, trọng lượng từ 2-5kg nhưng điểm khác biệt là đuôi khá dài, lên đến 55 cm.

Điểm đặc biệt của mèo gấm là bộ lông tuyệt đẹp, cằm và dưới môi có màu trắng hoặc vàng nhạt, sau tai có đốm trắng. Mèo này có lớp lông dày, mịn, màu xám xanh hoặc xám nâu, nhiều hoa văn cẩm thạch xung quanh, chân và đuôi có nhiều đốm thẫm.

Quỹ Thế giới bảo vệ động vật hoang dã (WWF) cảnh báo mèo rừng Việt Nam đang đứng trước nguy cơ suy giảm về số lượng. Nguyên nhân là vì chúng có bộ lông sặc sỡ nên nhiều người tìm cách săn bắt để lấy lông hoặc làm thú nuôi. Ngoài ra, nạn phá rừng xảy ra càng nhiều làm cho môi trường sống của mèo rừng cũng bị thu hẹp.

Hiện nay, số lượng mèo gấm trên thế giới chỉ còn khoảng 10.000 con và chúng vẫn đang tiếp tục giảm. Vì vậy, mèo gấm ở Việt Nam đã được xếp vào sách đỏ, cần bảo vệ khẩn cấp.

Bệnh Viện Giao Trả Mèo Rừng Quý Hiếm Cho Trung Tâm Bảo Tồn Động Vật Hoang Dã

Con mèo rừng quý hiếm vừa được BV Gia An 115 giao trả Vườn Quốc gia Cát Tiên

Con mèo rừng này được tìm thấy trong quá trình các công nhân của Khu Y Tế Kỹ thuật cao dọn dẹp mặt bằng để Bệnh viện Gia An 115 chuẩn bị cho công tác động thổ và xây dựng Trung tâm ung bướu & y học hạt nhân. Theo ông Nguyễn Văn A. (45 tuổi, công nhân dọn dẹp cắt cỏ tại Khu Y tế kỹ thuật cao), con mèo được tìm thấy nặng khoảng 5 kg, dài khoảng 55 cm. Sau khi bắt được, đội công nhân đã giao lại con mèo lạ này cho Chủ đầu tư của Khu Y tế kỹ thuật cao Hoa Lâm Shangrila.

Theo Quỹ Thế giới bảo vệ động vật hoang dã (WWF), mèo rừng Việt Nam được đánh giá là một trong những loài khó tìm nhất trên thế giới. Đây là loài động vật có tên gọi là mèo gấm, hay còn gọi là mèo cẩm thạch.

Mèo gấm có bộ lông đẹp nhất trong họ nhà mèo, thuộc chi Pardofelis. Thường sinh sống ở các khu rừng Đông Nam Á. Loài mèo này có họ hàng với báo lửa. Chúng cùng với mèo lửa xứ Borneo Pardofelis badia hợp thành chi Pardofelis.

Kích thước của mèo gấm gần tương đương như mèo nhà. Chiều dài khoảng 60cm, trọng lượng từ 2-5kg và đặc biệt đuôi khá dài lên đến 55cm.

Điểm đặc biệt của mèo gấm là bộ lông tuyệt đẹp. Cằm và dưới môi có màu trắng hoặc vàng nhạt, sau tai có đốm trắng. Mèo gấm có lớp lông dày, mịn, màu xám xanh hoặc xám nâu, nhiều hoa văn cẩm thạch xung quanh. Chân và đuôi của mèo gấm có nhiều đốm thẫm.

Mèo rừng Việt Nam đang phải đứng trước nguy cơ bị suy giảm về số lượng. Nguyên nhân là vì bộ lông sặc sỡ nên nhiều người đã tìm cách săn bắt để làm thú nuôi hoặc lấy lông. Ngoài ra, với tình trạng nạn phá rừng xảy ra càng nhiều làm cho môi trường sống của mèo rừng cũng bị thu hẹp.

Con mèo rừng được tìm thấy tại khu vực Bệnh viện Gia An 115 và Khu Y Tế Kỹ thuật cao Hoa Lâm Shangrila đã được trả về thiên nhiên trong tình trạng sức khỏe và thể trạng tốt có thể hòa nhập vào điều kiện sống thiên nhiên.

Chị Nguyễn Thị Ánh Nguyệt – Đại diện Bệnh viện Gia An 115 chia sẻ: ” Khi Chủ đầu tư nhận được con mèo này từ Đội giám sát xây dựng của Khu y tế Kỹ thuật cao, chúng tôi rất ngạc nhiên. Bởi vì chú mèo này có bộ lông gấm rất đẹp và lạ, hoa văn đốm nhìn rất hoang dã. Ngay lập tức, chúng tôi gửi hình ảnh và một đoạn quay clip con mèo này đến cơ quan Bảo tồn động vật hoang dã quốc gia, nhờ xác minh và kiểm tra về gốc gác chú mèo này thì được biết đây là một giống mèo rừng hiếm và quý trong sách đỏ, được gọi là mèo cẩm thạch mà trên thế giới chỉ còn khoảng 10.000 cá thể.

Theo TS.Bạch Thanh Hải, Giám Đốc Trung Tâm Cứu Hộ Bảo Tồn Và Phát Triển Sinh Vật Vườn Quốc Gia Các Tiên: “Mèo gấm này có bộ lông đẹp nhất trong họ nhà mèo, thuộc chi Pardofelis. Thường sinh sống ở các khu rừng Đông Nam Á. Loài mèo này có họ hàng với báo lửa. Chúng cùng với mèo lửa xứ Borneo Pardofelis badia hợp thành chi Pardofelis. Chúng tôi tiếp nhận và sẽ theo dõi chăm sóc từ 2 đến 3 tuần đáp ứng được điều kiện môi trường, khí hậu ở vị trí mới làm quen với môi trường mới trước khi tái thả. Hiện tại Việt Nam số lượng mèo này dao động từ 200 – 1000 con”.

Thái Hà

Tê Tê Là Con Gì? Những Loài Động Vật Hoang Dã Có Thể Bạn Chưa Biết

Tê tê (Manis pentadactyla) được bao phủ độc đáo trong các vảy cứng, chồng chéo lên nhau. Những động vật có vú này ăn kiến ​​và mối bằng cách sử dụng lưỡi dính cực kỳ dài và có thể nhanh chóng cuộn mình thành một quả bóng chặt khi chúng cảm thấy bị đe dọa. Tám loài tê tê khác nhau có thể được tìm thấy trên khắp châu Á và châu Phi. Việc săn trộm để buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp và mất môi trường sống đã khiến những sinh vật đáng kinh ngạc này trở thành một trong những nhóm động vật có vú bị đe dọa nhất trên thế giới.

Tê tê châu Á

Tê tê Trung Quốc ( Manis pentadactyla ) – Nguy cấp nghiêm trọng

Sunda tê tê ( Manis javanica ) – Nguy cấp nghiêm trọng

Tê tê Ấn Độ ( Manis crassicaudata ) – Có nguy cơ tuyệt chủng

Palang tê tê ( Manis Culionensis ) – Có nguy cơ tuyệt chủng

Tê tê châu Phi

Tê tê mặt đất ( Smutsia temminckii ) – Dễ bị tổn thương

Tê tê bụng trắng ( Phataginus tricuspis ) – Dễ bị tổn thương

Tê tê khổng lồ ( Smutsia gigantea ) – Dễ bị tổn thương

Tê tê bụng đen ( Phataginus tetradactyla ) – Dễ bị tổn thương

Đặc điểm của loài tê tê

Các loài tê tê có kích thước khác nhau từ khoảng 1,6 kg đến tối đa khoảng 33 kg . Chúng có màu sắc khác nhau từ nhạt, nâu vàng đến nâu sẫm. Vảy bảo vệ, chồng chéo bao phủ hầu hết cơ thể của chúng. Những chiếc vảy này được làm từ keratin – cùng loại protein hình thành nên tóc và móng tay của con người. Chồng chéo như lá atisô, vảy phát triển trong suốt cuộc đời của một con tê tê giống như tóc; các cạnh tỷ lệ liên tục được đưa xuống khi tê tê đào hang và đường hầm xuyên qua đất để tìm mối và kiến. Mặt dưới tê tê không có vảy, và được phủ lông thưa. Bốn con tê tê châu Á được phân biệt với các loài châu Phi bởi sự hiện diện của lông mọc ra từ giữa các vảy.

Với đầu và hàm hình nón nhỏ thiếu răng, tê tê có những chiếc lưỡi dài, cơ bắp và dính tuyệt vời, rất phù hợp để tiếp cận và vùi dập kiến ​​và mối trong các hốc sâu. Tê tê có thị lực kém, vì vậy chúng xác định vị trí của tổ kiến ​​với khứu giác mạnh. Lưỡi của một con tê tê được gắn gần xương chậu và cặp xương sườn cuối cùng của nó, và khi mở rộng hoàn toàn dài hơn đầu và cơ thể của con vật. Khi nghỉ ngơi, lưỡi của một con tê tê rút vào một vỏ bọc trong khoang ngực của nó. Dạ dày của một con tê tê là ​​cơ bắp và có gai keratinous chiếu vào bên trong của nó.

Tay chân tê tê mập mạp và thích nghi tốt cho việc đào. Mỗi chân có năm ngón chân và bàn chân trước của chúng có ba móng vuốt dài, cong dùng để phá hủy tổ của mối và kiến ​​và để đào hang và ngủ. Chúng có thể chạy nhanh một cách đáng ngạc nhiên, và thường sẽ đứng vươn lên trên chân sau để đánh hơi không khí. Tê tê cũng có khả năng bơi lội và trong khi một số loài tê tê như tê tê mặt đất ( Smutsia temmincki ) hoàn toàn trên cạn, thì những loài khác, chẳng hạn như tê tê bụng đen ( Phátaginus tetradactyla ) là những nhà leo núi giỏi, sử dụng móng vuốt của chúng để bám giữ vào thân cây và leo cây.

Tê tê sống ở đâu?

Bốn loài tê tê xuất hiện trên khắp châu Á: tê tê Ấn Độ, tê tê Trung Quốc, tê tê Sunda và tê tê Palawan.

Bốn loài được tìm thấy ở châu Phi phía nam sa mạc Sahara: tê tê mặt đất, tê tê bụng trắng, tê tê khổng lồ và tê tê bụng đen.

Tê tê được tìm thấy trong nhiều môi trường sống bao gồm rừng nhiệt đới và ngập nước, khu vực phát quang và trồng trọt, và đồng cỏ thảo nguyên; nói chung chúng xuất hiện ở nơi tìm thấy số lượng lớn thức ăn (kiến và mối). Đặc biệt tê tê châu Á đang bị đe dọa do mất môi trường sống do mở rộng nông nghiệp và các mục đích sử dụng khác của con người. Tê tê đào hang sâu để ngủ và làm tổ có chứa các buồng tròn. Các buồng lớn đã được phát hiện trong các hang tê tê trên cạn đủ lớn để con người có thể bò vào bên trong và đứng lên. Một số loài tê tê như tê tê Sunda cũng ngủ trong các hốc cây và khúc gỗ.

Thức ăn của tê tê là gì?

Tê tê sống chủ yếu bằng chế độ ăn kiến ​​và mối, chúng có thể bổ sung nhiều động vật không xương sống khác bao gồm ấu trùng ong, ruồi, giun, giun đất và dế. Chế độ ăn uống này khiến chúng cực kỳ khó duy trì trong điều kiện nuôi nhốt. Chúng thường từ chối các loài côn trùng lạ hoặc bị bệnh khi cho ăn thức ăn lạ. Tê tê hoang dã xác định vị trí tổ côn trùng bằng cách sử dụng khứu giác phát triển. Khéo léo đào những con kiến ​​và mối từ những gò đất, gốc cây và những khúc gỗ rơi xuống bằng móng vuốt của chúng, chúng sử dụng những chiếc lưỡi dính cực dài của chúng để bắt và ăn chúng.

Sự thèm ăn vô độ của tê tê đối với côn trùng mang lại cho chúng một vai trò quan trọng trong hệ sinh thái của chúng: kiểm soát dịch hại. Ước tính chỉ ra rằng một con tê tê trưởng thành có thể tiêu thụ hơn 70 triệu côn trùng mỗi năm. Tê tê có cơ bắp đặc biệt bịt kín lỗ mũi và tai của chúng, bảo vệ chúng khỏi côn trùng tấn công. Chúng cũng có cơ bắp đặc biệt trong miệng để ngăn kiến ​​và mối thoát ra sau khi bị bắt.

Hành vi

Tê tê sống đơn độc, hầu hết là hoạt động về đêm và rất bí mật. Do đó, rất khó để các nhà khoa học nghiên cứu chúng trong tự nhiên, và nhiều bí ẩn vẫn còn về hành vi và thói quen của chúng. Một số loài tê tê như tê tê Trung Quốc ngủ trong hang vào ban ngày và một số loài khác bao gồm tê tê bụng đen và tê tê Sunda được biết là ngủ trên cây. Chúng xuất hiện vào buổi tối để tìm thức ăn. Tê tê thích nghi tốt cho việc đào bới: chúng đào hang bằng chân trước với móng vuốt mạnh mẽ, sử dụng đuôi và chân sau để hỗ trợ và giữ thăng bằng.

Trong khi các loài tê tê có nhiều đặc điểm và thói quen, cũng có những khác biệt. Tê tê bụng trắng là lại giỏi leo cây, trong khi tê tê mặt đất là cư dân trên mặt đất. Và một số, bao gồm cả bốn loài châu Á, là những kẻ cơ hội và có thể tìm thấy thức ăn cả trên cây và trên mặt đất. Những con tê tê Ấn Độ được tìm thấy ở Sri Lanka được cho là sống trong tán rừng nhiệt đới nơi có hoa quả và hoa thu hút kiến, thay vì ở mặt đất nơi rất tối và nguồn cung cấp thực phẩm bị hạn chế.

Khi bị đe dọa, tê tê có thể nhanh chóng cuộn tròn thành một quả bóng, bảo vệ mặt dưới không phòng vệ của chúng. Chúng cũng ngăn chặn những kẻ săn mồi bằng cách rít lên và quất những cái đuôi sắc nhọn của chúng vào kẻ thù. Tê tê phụ thuộc vào khứu giác mạnh, xác định lãnh thổ của chúng bằng cách đánh dấu mùi hương bằng nước tiểu và dịch tiết ra từ một tuyến đặc biệt và bằng cách phân tán.

Sinh sản và tuổi thọ

Tê tê đực và cái khác nhau về trọng lượng ở hầu hết các loài, con đực nặng hơn con cái 10 – 50%. Tê tê đạt đến tuổi trưởng thành trong hai năm và hầu hết các con tê tê sinh ra một con, mặc dù hai và ba con cũng thấy ở các loài châu Á. Khi được sinh ra, tê tê dài khoảng 15 cm và nặng khoảng 340 gr. Vảy của chúng mềm và nhợt nhạt, và bắt đầu cứng lại vào ngày thứ hai. Các bà mẹ tê tê nuôi dưỡng con non của chúng trong hang ổ. Một người mẹ sẽ tự vệ lăn quanh con mình khi ngủ hoặc nếu bị đe dọa. Tê tê con trong ba đến bốn tháng, nhưng có thể ăn mối và kiến ​​trong một tháng. Tê tê con sẽ cưỡi trên đuôi của mẹ khi nó tìm kiếm côn trùng.

Người ta không biết tê tê có thể sống trong tự nhiên bao lâu, nhưng nghiên cứu cho thấy tê tê sống khoảng chừng 20 năm trong điều kiện nuôi nhốt.

Koala là con gì?

Bạn rất muốn biết koala là con gì? Koala hay còn được biết đến với tên gọi là gấu túi, là một loài thú có túi ăn thực vật sống tại Úc. Cũng như là loài vật duy nhất hiện còn sống trong họ Phascolarctidae, đồng thời là họ hàng rất gần gũi còn sinh tồn của nó là wombat.

Những con gấu koala ở quần thể phía bắc nhỏ hơn và màu lồn sáng hơn so với những con sống ở phía Nam.

Gấu koala cái trưởng thành đủ để sinh sản vào tầm 2 3 tuổi, còn con đực ở độ tuổi 3- 4, một con gấu koala khỏe mạnh có thể đẻ một con mỗi năm trong vòng 12 năm. Chu kỳ mang thai là 35 ngày, và gấu koala rất hiếm khi sinh đôi. Con đực và con cái thường giao hợp trong khoảng tháng 12 đến tháng 3, tương ứng với mùa hè tại Nam Bán Cầu.

Gấu koala mới sinh không có lông, chưa mở mắt, chưa có tai và chỉ bé bằng hạt đậu. Khi lọt lòng mẹ, gấu koala trèo lên cái túi lộn ngược của mẹ nó, tùy ý đóng mở theo ý muốn của gấu koala mẹ, bám vào một trong 2 núm vú của mẹ.

Koala nhỏ ở trong túi của mẹ trong khoảng 6 tháng đầu tiên, và chỉ bú sữa mẹ, trong khoảng thời gian này sẽ phát triển tai, mắt, lông. Sau một khoảng thời gian, gấu koala nhỏ sẽ đi ra ngoài. Khoảng 30 tuần tuổi, nó bắt đầu ăn thức ăn sệt gọi là ” pap” do gấu koala mẹ tiết ra.

Gấu koala sẽ ở lại với mẹ thêm 6 tháng nữa, trèo lên lưng mẹ, bú sữa và ăn lá cây. Sau khoảng 12 tháng ở với mẹ, gấu koala sẽ tự đi kiếm ăn ở những vùng xung quanh. Tuy nhiên gấu koala nhỏ sẽ tiếp tục đi với mẹ cho đến khi được 2- 3 tuổi.

– Gấu koala chủ yếu hoạt động về đêm, chúng ngủ ngày và ban đêm thức để kiếm ăn, nhưng trên thực tế thời gian ngủ của chúng kéo dài từ 18- 20 giờ/ ngày, nên chúng sẽ không có ban đêm hay ban ngày. Mà khi gấu koala tỉnh dậy khi đã ngủ đủ giấc, thì chúng sẽ đi kiếm ăn.

– Koala rất hiếm khi uống nước, bởi theo tiếng thổ dân thì “koala” nghĩa là không uống nước. Do vậy, chúng rất hiếm khi uống nước, bởi vì người ta tin rằng koala giữ độ ẩm trong người từ việc ăn lá cây.

– Thức ăn yêu thích của koala là lá cây bạch đàn, hay còn được biết đến với tên gọi là khuynh diệp. Tuy nhiên trong loại lá này có chứa chất độc, nhưng chỉ có một loại gấu koala là có thể tiêu hóa được loại lá này, do chúng có một bộ phận được gọi là “cecum”, nên sẽ giúp tiêu hóa lá cây, mà không bị ngộ độc.

Tuy nhiên, dạ dày của gấu koala con thì chất cecum chưa phát triển đủ, do vậy mà koala con không thể ăn lá bạch đàn. Nên chúng phải ở trong túi của mẹ cho đến khi hệ tiêu hóa được hoàn thiện.

– Koala ngủ nhiều là do chế độ dinh dưỡng thiếu chất từ lá cây bạch đàn, cũng như phần lớn năng lượng của chúng dùng để tiêu hóa, do vậy mà chúng hạn chế vận động, và ngủ rất nhiều trong ngày.

– Koala có thể chạy nhanh như thỏ, bạn đừng bị dáng vẻ bề ngoài chậm chạp, uể oải của chúng đánh lừa. Thực ra những con koala có thể chạy nhanh như những chú thỏ, tuy nhiên vì để tiết kiệm năng lượng cho việc tiêu hóa, nên chúng sẽ không chạy nhanh khi không cần thiết.

Mèo rừng

Mèo rừng là loài động vật có môi trường sống thuở sơ khai là rừng rậm, thảo nguyên và xavan. Hiện nay, mèo rừng thích nghi được với rất nhiều môi trường sống từ lục địa đến hoang đảo.

Có hình dáng và thể trạng giống như mèo nhà.

Lông có màu vàng nhạt, đốm hoặc sọc nâu đen. Phần dưới của mèo rừng là màu xám hoặc đen tuyền.

Mèo rừng có chiều dài khoảng 45 – 80cm, trọng lượng 3 – 6kg.

Vai rộng trung bình khoảng 35cm, đuôi dài 30cm.

Mèo rừng ở châu Á và châu Phi có kích thước nhỏ hơn. Và bộ lông ngắn, màu nâu nhẹ hơn so với mèo rừng ở châu Âu.

Đặc tính của mèo rừng giống như mèo nhà. Chẳng hạn như cách đẻ con, nuôi con hoặc cử chỉ âu yếm, tiếng kêu. Chỉ mùa sinh sản nó mới thích tĩnh lặng và không muốn ai đến gần.

Mèo rừng rất thận trọng thường tránh xa hoàn toàn nơi con người sinh sống. Nó cũng giữ một khoảng riêng biệt với những loài khác, sống đơn độc. Lãnh thổ rộng từ 1,5 – 12km2, tùy thuộc vào từng địa phương có mèo rừng cư trú.

Mèo rừng đực có xu hướng chiếm nhiều lãnh thổ hơn mèo rừng cái, thường có 3 – 6 con cái là láng giềng. Đánh dấu lãnh thổ bằng cách để lại mùi nước tiểu trên mặt đất hoặc cáo đất, để lại mùi lông trên cây cối.

Nhiều bạn đọc thắc mắc mèo rừng ăn gì, các nhà động vật học đã nghiên cứu và trả lời câu hỏi như sau: Mèo rừng ăn thịt là chủ yếu, thực vật và côn trùng chỉ một phần nhỏ. Con mồi của nó gồm thú gặm nhấm, động vật có vú nhỏ, thỏ, chim…

Mèo rừng đẻ 1 lứa/năm, nhưng cũng có thể đẻ 2 lứa/năm nếu lứa đầu tiên bị chết quá sớm. Nó thường đẻ vào giữa tháng 2 – tháng 3 (châu Âu), vào mùa mưa đến lúc lượng thức ăn dồi dào nhất (Nam Phi). Chu kỳ kinh nguyệt của mèo rừng thường từ 2 – 8 ngày. Thời gian mang thai của mèo rừng là từ 56 – 69 ngày.

Loài mèo rừng ăn gì?

Mèo rừng sinh từ 1 – 5 con mỗi lần, phổ biến nhất là 3 – 4 con. Mèo con nặng 75 – 150g, chưa mở mắt và rất yếu. Sọc trên mình của mèo con mờ nhạt nên rất khó phát hiện. Mở mắt sau khoảng 7 – 12 ngày, có thể đi săn mồi với mèo mẹ khi được 10 – 12 tuần tuổi. Sau 2 tháng mèo rừng con sẽ hoàn toàn dứt sữa và sau 3 tháng tuổi sống tự lập. Một năm sau có thể thiết lập lãnh thổ riêng và tìm bạn tình.

Các nguồn đe dọa đến mèo rừng hiện nay là Sự lai tạo với loài mèo nhà, bệnh dịch và sự cạnh tranh nguồn thức ăn với các loài khác. Hiện nay, mèo rừng đang bị đe dọa bởi nhiều nguồn như sự lai tạo với mèo nhà, sự cạnh tranh thức ăn với loài khác, bệnh dịch. Mối đe dọa nguy hại nhất là môi trường sống bị thu hẹp lại do con người chặt phá rừng bừa bãi. Nạn khủng bố cũng là mối đe dọa ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng mèo rừng hiện nay.

Mèo rừng Việt Nam được đánh giá là một trong những loài khó tìm nhất trên thế giới. Đây là loài động vật có tên gọi là mèo gấm hoặc mèo cẩm thạch.

Các loài mèo rừng quý hiếm hiện nay trên thế giới

Mèo rừng Việt Nam có bộ lông đẹp nhất trong họ nhà mèo, thuộc chi Pardofelis. Thường sinh sống ở các khu rừng Đông Nam Á. Loài mèo này có họ hàng với báo lửa. Chúng cùng với mèo lửa xứ Borneo Pardofelis badia hợp thành chi Pardofelis.

Điểm đặc biệt của mèo rừng Việt Nam là bộ lông tuyệt đẹp. Cằm và dưới môi có màu trắng hoặc vàng nhạt, sau tai có đốm trắng. Mèo gấm có lớp lông dày, mịn, màu xám xanh hoặc xám nâu, nhiều hoa văn cẩm thạch xung quanh. Chân và đuôi của mèo gấm có nhiều đốm thẫm.

Mèo rừng Việt Nam đang phải đứng trước nguy cơ bị suy giảm về số lượng. Nguyên nhân là vì bộ lông sặc sỡ nên nhiều người đã tìm cách săn bắt để làm thú nuôi hoặc lấy lông. Ngoài ra, với tình trạng nạn phá rừng xảy ra càng nhiều làm cho môi trường sống của mèo rừng cũng bị thu hẹp.

Mèo rừng Châu Phi còn được gọi là mèo sa mạc hoặc Vaalboskat có tên khoa học Felis silvestris lybica, thuộc loài mèo rừng Felis silvestris.

Mèo rừng Châu Phi có những đặc điểm nhận dạng như sau:

Lông màu vàng xám hoặc nâu, đuôi có vằn đen. Lông ngắn hơn so với mèo rừng châu Âu.

Kích thước nhỏ: Chiều dài đầu, thân khoảng 45 – 75cm. Đuôi dài khoảng 20 – 38cm, nặng từ 3 – 6,5kg.

Sinh sống ở châu Phi và vùng Trung Đông ở những môi trường xavan, thảo nguyên, cây bụi rậm.

Thức ăn của mèo rừng Châu Phi là những loài thú nhỏ, loài gặm nhấm, chim, côn trùng, bò sát, lưỡng cư.

Thời gian hoạt động của mèo rừng Châu Phi vào lúc hoàng hôn, đêm tối. Ban ngày, chúng thường nghỉ ngơi và ẩn nấp ở bụi rậm.

Mèo rừng châu Phi sẽ xù lông lên khi gặp kẻ địch.

Lãnh thổ của mèo rừng Châu Phi đực gồm một phần lãnh thổ của vài mèo rừng cái.

Mèo rừng châu Phi

Mèo cái thường sinh 2 – 6 con/lứa, thường 3 con/lần. Đa số vào mùa mưa khi nguồn thức ăn của chúng dồi dào. Mèo con sống với mẹ khoảng 5 – 6 tháng, 1 tuổi sẽ trưởng thành và sinh sản.

Khỉ đầu chó

Khỉ đầu chó có bộ lông dày, xuất hiện trong sự kết hợp của lông màu vàng, nâu và đen trên khắp cơ thể. Nhìn chung, những sợi lông mang lại màu xanh cho khỉ đầu chó khi nhìn từ xa. Khỉ đầu chó còn được gọi là khỉ đầu chó Anubis vì chúng có mõm giống chó, khá giống với Thần Ai Cập tên là Anubis.

Răng nanh tương đối nhỏ ở khỉ đầu chó. Con đực có răng nanh dài có thể dài tới 5 cm. Những con đực lớn hơn cho thấy đôi khi răng nanh dài hơn so với sư tử châu Phi. Khỉ đầu chó có những giác quan sắc bén cho phép chúng hoạt động trên đồng cỏ châu Phi. Cảm giác thính giác, khứu giác và thị giác tuyệt vời khiến chúng có thể nhận thấy được những dấu hiệu dù là nhỏ nhất do một mối đe dọa tiếp cận. Những giác quan sắc bén này cũng được sử dụng thường xuyên để liên lạc với những con khỉ đầu chó khác trong khu vực.

Một con khỉ đầu chó có thể sống 25-30 năm trong tự nhiên, nhưng rất ít con có thể sống lâu như vậy, đặc biệt là do những kẻ săn mồi sống ở đồng cỏ châu Phi và rừng thảo nguyên.

Khi một mối đe dọa tiềm tàng được phát hiện, khỉ đầu chó nhanh chóng tìm nơi ẩn náu trong những cây gần đó. Tuy nhiên, trong các tình huống, một cuộc tấn công là chiến lược phòng thủ tốt nhất của khỉ đầu chó. Trong những tình huống như vậy, đoàn quân hung hăng lao về phía kẻ săn mồi, phô bày những chiếc răng nanh dài của chúng. Với sức mạnh về số lượng, hàm và cánh tay, đội quân của khỉ đầu chó có khả năng chống đỡ bất kỳ kẻ săn mồi nào trong môi trường sống của mình. Tuy nhiên, người nguy hiểm nhất trong tất cả, là con người. Người dân bộ lạc sống trên đồng cỏ châu Phi được biết đến để săn khỉ đầu chó vì chúng có sẵn với số lượng lớn.

Khỉ đầu chó theo một hành vi giao phối lăng nhăng, nơi con đực và con cái của đoàn quân với các đối tác khác nhau trong mùa giao phối. Trong quá trình rụng trứng, con cái bị sưng nơi vùng sinh dục phình ra và chuyển sang màu đỏ tươi. Điều này hoạt động như một tín hiệu cho con đực rằng con cái đã sẵn sàng để giao phối. Những thay đổi hành vi cũng được quan sát thấy ở cả đực và cái trong giai đoạn giao phối. Con cái bị sưng ở vùng sinh dục lớn hơn được coi là có khả năng sinh sản cao hơn những con cái khác. Những con cái như vậy thu hút nhiều con đực, dẫn đến xung đột dữ dội giữa những con đực.

Sóc bụng đỏ

Con đực trưởng thành nặng trung bình 591,7 g và con cái trưởng thành nặng trung bình 562,5 g. 1993 báo cáo khối lượng cơ thể trung bình là 50 g.

Chiều dài đầu và thân dao động từ 232 đến 310 mm, với chiều dài đuôi dao động từ 215 đến 284 mm.

Loài sóc bụng đỏ là một trong những loài sóc cây bán cầu Tây biến đổi nhất về mặt và màu sắc và hoa văn trên cơ thể. Chúng có thể có các phần trên màu xám có thể bị phá vỡ hoặc không có hoa văn. Phần dưới có thể thay đổi từ màu trắng sang màu cam đến màu hạt dẻ sâu. Trong một khu vực nghiên cứu ở Michoacan, sóc có màu xám với phần dưới màu trắng.

Hơn nữa, các quần thể được phát hiện ở Florida Keys có xương chậu hoàn toàn màu đen hoặc xám với pha màu bụng đỏ với tỷ lệ 50%. Hầu hết các loài sóc phát triển sắc tố melanistic có một màu đỏ nhạt đến phần dưới lưng và mông.

Loài sóc bụng đỏ được tìm thấy trong nhiều khu rừng khác nhau, từ bụi cây nhiệt đới và rừng lá rộng của vùng đất thấp nóng đến rừng mây ôn đới lạnh và ẩm ướt của sồi và cây lá kim ở vùng cao. Chúng được tìm thấy ở độ cao tới 3.800 mét. Chúng thường được tìm thấy nhiều nhất ở vùng rừng khô và thường xuất hiện trong môi trường sống có rừng bao gồm bụi gai, rừng rụng lá và thường xanh, rừng cây sồi khô, rừng thứ sinh và rừng trồng. Loài sóc bụng đỏ Mexico cũng sinh sống ở những vùng giáp ranh với nông nghiệp và thành thị. Các quần thể được phát hiện ở Florida Keys có rất nhiều trong rừng võng dày đặc, cận nhiệt đới.

Chi sóc aureogaster, con cái sinh 2 – 4 con trong mùa khô. Đối với quần thể sóc bụng đỏ ở Florida, trung bình 1-2 con mỗi lứa và thức ăn có sẵn là yếu tố hạn chế trong sinh sản của chúng. Trong một nghiên cứu, 70-90% con đực trưởng thành bị bắt ở Florida biểu hiện các dấu hiệu của tình trạng sinh sản quanh năm. Trong cùng khu vực, con cái cho con bú thay đổi từ 50% con cái trưởng thành vào tháng 2 và hơn 40% trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 8, xuống mức thấp 12,5% trong tháng 11. Nhìn chung, người ta biết rất ít về sinh sản ở loài sóc này.

Môi trường sống

Những con sóc bụng đỏ Mexico rất hay di chuyển với hầu hết các hoạt động bắt đầu từ nửa giờ sau khi mặt trời mọc cho đến khoảng một giờ trước buổi trưa, và sau đó bắt đầu lại vào đầu giờ tối. Ngay cả sau khi tiếp xúc lâu với con người, sóc bụng đỏ là loài nhút nhát và khó nắm bắt.

Ở những khu vực mà loài này được phát hiện, nó hiếm khi rơi xuống đất và dành phần lớn thời gian ở trên những tán cây. Tuy nhiên, ở Mexico, sóc bụng đỏ có thể nhìn thấy dưới mắt đất trong rừng quanh năm, đặc biệt là trong mùa khô. Gió mạnh, những ngày có nhiệt độ môi trường cao và thời tiết nhiều mây hoặc mưa làm ức chế hoạt động bình thường của sóc bụng đỏ. Khi một kẻ xâm nhập đến gần, sóc bụng đỏ thể hiện các hành vi hung hăng thường xuyên như phát ra tiếng kêu và di chuyển đuôi về phía trước và lùi lại nhanh chóng.

Loài sóc bụng đỏ Mexico làm tổ được xây dựng trên cành cây cao khoảng 5 – 15m so với mặt đất. Những tổ lá này bao gồm các nhánh cây đan xen chứa một tách lá đơn bên trong và được bao phủ bởi một vòm lá xen kẽ và các nhánh nhỏ. Những con sóc xây tổ trong hốc cây hoặc trong cành cây sồi và thông. Các cá thể xây dựng tổ cắn đứt cành lá dài 20 – 30cm và đan xen chúng thành một hình cầu.

Tập tính của sóc bụng đỏ Mexico

Quần thể sóc ở Florida Keys thể hiện sự ưa thích đối với gumbo limbo và quả của cây chiococca. Tuy nhiên, hạt giống được sử dụng nhiều nhất là dừa và thông Úc, cung cấp nguồn thực phẩm phong phú và liên tục trong suốt cả năm dọc theo bờ biển.

Trong các quần thể sóc bụng đỏ, chúng được săn lùng làm thức ăn cho con người và chiếm 4,9% khẩu phần ăn của loài mèo ( Lynx rufus ). Trong các quần thể được phát hiện, có rất ít ảnh hưởng từ việc bị săn mồi. Thay vào đó, cạnh tranh thực phẩm với sóc cáo bản địa, chuột đen, gấu trúc, chim, cú và các loài khác dường như là yếu tố hạn chế phát triển của loài này.

Gấu Bắc cực

Kẻ thù và mối đe dọa đến loài sóc bụng đỏ

Để giữ ấm, gấu Bắc cực có lớp da đen trên một lớp mỡ dày có thể đo tới 11,4 cm. Trong nước, chúng dựa nhiều hơn vào lớp mỡ để giữ ấm; lông ướt dẫn đến giữ nhiệt kém.

Da của chúng không phải là thứ duy nhất hoạt động để giữ ấm – tai của chúng nhỏ và tròn, và đuôi của chúng ngắn và gọn, để giữ nhiệt tốt nhất có thể.

Ursus maritimus là tên khoa học của gấu Bắc cực. Nó còn có nghĩa là gấu biển. Gấu Bắc cực được phân loại là động vật có vú biển vì chúng dành phần lớn cuộc đời của chúng trên băng biển Bắc Băng Dương. Đặc điểm của gấu Bắc cực

Bàn chân gấu Bắc cực là lý tưởng để di chuyển vùng Bắc Cực.

Chúng có chiều dài lên tới 30 cm, để giúp gấu Bắc cực giẫm lên băng mỏng. Khi băng rất mỏng, những con gấu vươn hai chân ra xa nhau và hạ thấp cơ thể để phân phối trọng lượng của chúng.

Bàn chân gấu Bắc cực không được sinh ra không chỉ để giúp đi trên đất liền. Khi bơi, chân trước của gấu hoạt động giống như mái chèo lớn và chân sau của nó đóng vai trò là bánh lái.

Bàn chân và móng vuốt

Không giống như các loài thú ăn thịt lớn khác, gấu Bắc cực không có lãnh thổ riêng, một phần vì môi trường sống băng biển của chúng luôn di chuyển và thay đổi theo mùa, mở rộng vào mùa đông và rút lui vào mùa hè.

Gấu Bắc cực ở những vùng có ít băng biển và ít hải cẩu hơn có thể di chuyển xa hơn và có thời gian nhịn ăn lâu hơn.

Môi trường sống của những con gấu Bắc cực

Thời tiết Bắc cực có thể lạnh dữ dội. Là con người, chúng ta cần quần áo bảo hộ hoặc nơi trú ẩn để giữ ấm. CÒn đối với gấu Bắc cực thì không. Cơ thể của chúng phát triển mạnh trong nhiệt độ khắc nghiệt.

Ở Bắc Cực cao, mặt trời lặn vào tháng Mười và không mọc lại cho đến cuối tháng Hai. Nhiệt độ mùa đông có thể giảm xuống -40°C hoặc -46°C và giữ nguyên như vậy trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần. Nhiệt độ trung bình tháng một và tháng hai là -34°C.

Gấu được cách nhiệt bằng hai lớp lông và một lớp mỡ cơ thể dày. Điều này cung cấp đủ cách nhiệt mà nhiệt độ cơ thể và tốc độ trao đổi chất của chúng không thay đổi, ngay cả khi nhiệt độ đạt đến -37°C.

Vào những ngày lạnh buốt với những cơn gió dữ dội, gấu Bắc cực đào hố trú ẩn trong bờ tuyết và cuộn tròn như một quả bóng.

Thay đổi theo mùa

Gấu Bắc cực có nhiều vấn đề với quá nóng hơn so với lạnh. Đó là lý do tại sao chúng thường đi bộ với tốc độ nhàn nhã. Chúng có thể nhanh chóng trở nên quá nóng khi chạy.

Giữa tháng 4 và cuối tháng 6, khi tuyết bắt đầu tan và ngày trở nên dài hơn, gấu Bắc cực trưởng thành bắt đầu tìm bạn tình trên băng biển bằng cách đi theo những con đường mòn có mùi thơm để lại trên bàn chân.

Gấu Bắc cực thích ứng cho sự sống còn trong môi trường khắc nghiệt

Con đực đạt đến độ chín về tình dục ở độ tuổi từ sáu đến mười, và con cái ở độ tuổi từ bốn đến sáu.

Giao phối diễn ra trên băng biển nhưng những quả trứng màu mỡ không được cấy cho đến mùa thu sau, và chỉ khi người mẹ có đủ chất béo để duy trì bản thân và đàn con trong suốt một mùa dài. Quá trình này được gọi là cấy ghép chậm. Con đực trưởng thành ở với con cái vài ngày trước khi rời đi.

Sau khi cho ăn suốt mùa hè và mùa thu, một con gấu bắc cực cái đang mang thai bắt đầu xây dựng một phòng hộ sinh, nơi nó sẽ sinh ra những con gấu con và chăm sóc chúng cho đến mùa xuân.

Những con gấu Bắc cực đang mang thai sẽ chọn một địa điểm dọc theo bờ biển và bờ sông, trên những ngọn đồi gần băng biển hoặc trên bờ tuyết trên biển đóng băng. Gấu mẹ sẽ đào vào đất than bùn lớn lên được tìm thấy dọc theo bờ hồ và sông.

Những con gấu Bắc cực hoang dã thường được sinh ra vào tháng 12. Gấu mẹ sinh ra một, hai hoặc ba con. Sinh đôi là phổ biến nhất.

Vào mùa thu, một con hải cẩu cắt mười đến mười lăm lỗ thở trong băng, sử dụng móng vuốt sắc nhọn trên chân chèo trước của nó.

Hải cẩu giữ lỗ thở của chúng mở suốt mùa đông dài, thậm chí trong lớp băng dày tới hai mét. Chúng xuất hiện khoảng năm đến mười lăm phút tại một trong các lỗ hoặc sử dụng các túi khí bị mắc kẹt dưới lớp băng khi có sẵn.

Gấu Bắc cực săn mồi bằng cách chờ hải cẩu thở vào khe hở. Gấu Bắc cực định vị chúng bằng khứu giác mạnh mẽ và chờ đợi hải cẩu xuất hiện. Gấu Bắc cực phải thông minh và kiên nhẫn vì sự chờ đợi có thể kéo dài đôi khi hàng giờ, hoặc thậm chí vài ngày.

Đôi khi gấu Bắc cực săn mồi bằng cách rình rập những con hải cẩu đang đắm mình trên băng. Con gấu bò từ từ về phía trước và đóng băng tại chỗ khi con vật ngẩng đầu lên. Ở khoảng sáu mét từ con hải cẩu, con gấu sử dụng tốc độ bùng nổ của nó để vồ, giết chết con hải cẩu trước khi nó có thể trốn trở lại biển.

Mùa hè và mùa thu

Tắc kè

Một trong những tài năng nổi tiếng nhất của con tắc kè là khả năng chạy dọc theo các bề mặt trơn bóng – thậm chí là cửa sổ kính hoặc trên trần nhà. Bề mặt duy nhất mà tắc kè không thể dính vào là Teflon ( là nhựa có hệ số ma sát thấp nhất). Thêm nước, tuy nhiên, tắc kè có thể dính ngay cả vào bề mặt dường như không thể này! Chúng làm điều này thông qua các miếng đệm ngón chân chuyên dụng.

Trái với suy nghĩ của nhiều người, tắc kè không có ngón chân dính như thể được phủ bằng keo. Chúng bám rất dễ dàng nhờ những sợi lông có kích thước nano – hàng ngàn trong số chúng – nối từng ngón chân.

Sự thích nghi tuyệt vời này của tắc kè đã truyền cảm hứng cho các nhà khoa học tìm cách bắt chước khả năng bám này, cải thiện mọi thứ từ băng y tế đến lốp xe tự làm sạch.

Gấu bắc cực săn mồi như thế nào?

Hầu hết các loài tắc kè là loài sống về đêm và chúng đặc biệt thích nghi tốt với việc săn bắn trong bóng tối.

Theo một nghiên cứu về con tắc kè, phân biệt màu sắc dưới ánh trăng mờ khi con người bị mù màu. Độ nhạy của mắt tắc kè đã được tính toán cao hơn 350 lần so với tầm nhìn hình nón của con người ở ngưỡng nhìn màu. Quang học và hình nón lớn của tắc kè là những lý do quan trọng tại sao chúng có thể sử dụng tầm nhìn màu ở cường độ ánh sáng yếu.

Mặc dù chúng ta khó có thể nhìn thấy trong ánh trăng mờ, nhưng tắc kè có thể tiến hành công việc của chúng trong thế giới vẫn là một thế giới đầy màu sắc.

Mục đích của âm thanh có thể là để cảnh báo các đối thủ cạnh tranh khỏi lãnh thổ, để tránh chiến đấu trực tiếp hoặc thu hút bạn tình, tùy thuộc vào loài và tình huống. Nhưng nếu bạn từng nghe thấy một tiếng hót líu lo trong nhà vào ban đêm, bạn có thể đang có một con tắc kè làm khách.

Có 35 loài thằn lằn trong họ Pygopodidae. Gia đình này nằm dưới nhánh Gekkota, bao gồm sáu họ tắc kè. Những loài này – tất cả đều là loài đặc hữu của Úc và New Guinea – thiếu chân trước và chỉ có những vết lồi lõm trông giống như vạt. Các loài thường được gọi là thằn lằn không chân , thằn lằn rắn hoặc, nhờ những bàn chân giống như vạt, thằn lằn chân.

Giống như các loài tắc kè khác, trăn có thể phát ra tiếng kêu, phát ra những tiếng rít cao để giao tiếp. Chúng cũng có thính giác nổi bật và có khả năng nghe âm cao hơn âm thanh mà bất kỳ loài bò sát nào khác phát hiện được.

Giống như nhiều loài thằn lằn, tắc kè có thể tách đuôi của chúng như một phản ứng với loài săn mồi. Khi một con tắc kè bị tóm lấy, cái đuôi rơi ra và tiếp tục co giật và đập mạnh, tạo ra một sự xao lãng lớn có thể cho phép con tắc kè trốn thoát khỏi một kẻ săn mồi đói khát. Tắc kè cũng thả đuôi của chúng như một phản ứng với căng thẳng, nhiễm trùng hoặc nếu bản thân cái đuôi bị tóm lấy.

Thật đáng ngạc nhiên, những con tắc kè tách đuôi của chúng dọc theo một đường chấm chấm trước. Đây là một thiết kế cho phép một con tắc kè mất đuôi nhanh chóng và gây sát thương tối thiểu cho phần còn lại của cơ thể.

Một con tắc kè có thể mọc lại cái đuôi bị rớt của nó, mặc dù cái đuôi mới có thể sẽ ngắn hơn, cùn hơn và có màu khác một chút so với đuôi ban đầu. Tắc kè mào là một loài không thể mọc lại đuôi – một khi bị đứt thì nó biến mất hoàn toàn.

Tắc kè có thể tạo ra nhiều âm thanh khác nhau để giao tiếp

Mất đuôi không phải là một sự kiện thuận lợi cho một con tắc kè, không chỉ bởi vì đó là một quá trình tốn nhiều năng lượng để lấy lại toàn bộ đuôi, mà còn bởi vì một con tắc kè lưu trữ chất dinh dưỡng và chất béo trong đuôi của nó như một sự bảo vệ chống lại thời gian khi thức ăn khan hiếm.

Bởi vì điều này, đối với nhiều loài, một cái đuôi tròn trĩnh, tròn trịa là một cách tốt để đánh giá sức khỏe của tắc kè. Tùy thuộc vào loài, một cái đuôi mỏng có thể cho thấy chúng đói hoặc bệnh tật.

Tắc kè phạm vi trong vòng đời tùy thuộc vào loài, nhưng nhiều con sẽ sống khoảng năm năm trong tự nhiên. Tuy nhiên, một số loài phổ biến như thú cưng có thể sống lâu hơn một chút.

Trong điều kiện nuôi nhốt, một con tắc kè được chăm sóc tốt có thể sống trong khoảng 10-20 năm. Tắc kè trung bình từ 15-20 năm, mặc dù cá thể sống lâu nhất được ghi nhận ở 27 năm.

Gấu chó

Một số loài tắc kè không có chân và trông giống rắn hơn

Loài gấu chó, cũng được gọi là Amphicyon, mang những đặc tính của loài gấu (cơ thể to lớn, có bàn chân to với gan bàn chân trần để có thể đứng thẳng bằng hai chân) và loài chó (chân tương đối dài và mõm dài). Tuy nhiên chúng không phải là loài gấu (họ Ursidae), cũng không phải là loài chó (họ Canidae). Đây có lẽ là điều bất ngờ ít ai biết nhất. Vậy gấu chó thuộc loài nào?

Dựa theo khoa học, gấu chó đặc biệt không phải họ nhà gấu cũng không phải họ nhà chó, nhưng chúng nằm trong nhóm phân bộ dạng chó California hoặc phân bộ “giống chó”. Các loài động vật hiện đại ở phân bộ dạng chó gồm có sói, cáo, chó, gấu, sư tử biển và chồn. Điều này làm cho loài gấu chó có một thứ gì đó giống như người anh em họ hàng trùng tên với chúng. Ngoài ra, loài gấu chó này dễ nhầm lẫn với những giống chó hiện đại, chẳng hạn như loài chó săn gấu Karelian. Tuy nhiên, gấu chó hoàn toàn không thuộc cùng loài với giống chó hiện đại.

Không giống như các loài gấu khác, lông của gấu chó ngắn và mượt. Điều này có lẽ là do môi trường sống của chúng là những vùng đất thấp nóng ẩm. Màu lông của chúng là đen sẫm hay hay nâu đen, ngoại trừ phần ngực có màu vàng-da cam nhạt có hình dạng giống như móng ngựa hoặc hình chữ U. Màu lông tương tự có thể tìm thấy xung quanh mõm và mắt.

Hầu hết tắc kè có thể tách đuôi của chúng

Gấu chó có vuốt có dạng lưỡi liềm, tương đối nhẹ về khối lượng. Chúng có bàn chân to với gan bàn chân trần, có lẽ là để hỗ trợ việc leo trèo. Chân chúng hướng vào trong nên bước đi của chúng giống như đi vòng kiềng, nhưng chúng là những con vật leo trèo giỏi. Gấu chó cũng có tai ngắn và tròn, mõm ngắn.

Có hai loại gấu chó chính:

Thứ nhất là loài Borocyon robustum có chân dài thích hợp với các hoạt động chạy nhảy và giống với loài chó sói hiện đại.

Thứ hai là loài Amphicyon longiramus, có thân hình chắc nịch và trông giống loài gấu hiện đại.

Như vậy, với những thông tin ở trên thì người đọc đã biết gấu chó là gì và có những loài gấu chó nào. Tiếp theo đây, bài viết sẽ cung cấp những thông tin khác về loài gấu chó.

Tắc kè sử dụng đuôi của chúng để lưu trữ chất béo và chất dinh dưỡng

Giống loài chó và loài gấu hiện nay, loài gấu chó có kích thước lớn. Chúng có thể chỉ nặng vài cân hoặc có thể có cân nặng lên đến 450kg. Nó được cho rằng những tiến hóa ban đầu của loài gấu chó rất nhỏ, chỉ bằng kích thước của loài chó Chihuahua (một trong những giống chó nuôi nhỏ nhất trên thế giới). Khi tiếp tục phát triển, kích thước của nó dường như lớn dần lên.

Khi tiến hóa thành loài động vật lớn có một vài lợi ích và bất lợi. Trong khi kích thước cơ thể ngày càng trở nên lớn hơn sẽ cho phép chúng săn những con mồi lớn hơn và chuỗi thức ăn cao hơn, chúng cũng cần nhiều thức ăn hơn và tái sản xuất chậm hơn. Bởi vậy, đây cũng là một trong những lý do khiến loài gấu chó tuyệt chủng.

Mặc dù nhiệt độ lạnh lên trong thế Oligocen nhưng nó vẫn khá ấm áp và thảm thực vật phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các địa điểm trên khắp thế giới, bao gồm Bắc Mỹ và châu Phi. Loài gấu chó đã tuyệt chủng 5 triệu đến 10 triệu năm trước.

Răng của loài gấu chó được hình thành để có một chế độ ăn tạp, giống như loài gấu hiệu đại và loài chó hiện đại. Mồi của loài gấu chó nhỏ hơn, có thể là các loài động vật gặm nhấm, trong khi loài gấu chó lớn hơn có thể ăn những loài động vật lớn hơn như loài lợn hoang dã chẳng hạn.

Thức ăn của gấu chó dao động rất rộng và bao gồm các động vật có xương sống nhỏ như thằn lằn, chim, hay các loài động vật có vú…. cũng như hoa quả, trứng, ngọn non cây dừa, mật ong, quả mọng, chồi cây, côn trùng, rễ cây, quả của ca cao hay dừa. Hàm răng đầy sức mạnh của chúng có thể phá vỡ những quả dừa. Phần lớn thức ăn của gấu chó là nhờ vào khứu giác của chúng vì mắt của chúng rất kém.

Là một con vật ăn đêm là chủ yếu, gấu chó thích tắm nắng hay nghỉ ngơi về ban ngày trên các cành cây to cách mặt đất khoảng 2-7 mét. Vì chúng tiêu hao nhiều thời gian ở trên cây, gấu chó đôi khi làm tổn thất nặng nề cho các loại cây trồng. Chúng được coi là những kẻ phá hoại dừa và ca cao trong các đồn điền. Tập tính này là nguyên nhân làm giảm số lượng của quần thể gấu chó cũng giống như việc săn bắn để lấy lông và mật để sử dụng trong y học Trung Hoa.

Rồng Komodo

Con rồng Komodo lần đầu tiên được phát hiện và ghi nhận vào năm 1910 bởi Trung úy van Steyn van Hensbroek, người đã đến đảo Komodo sau khi nghe những câu chuyện về thằn lằn khổng lồ. Anh ta đã giết một con rồng và gửi da và một số bức ảnh cho Peter A. Ouwens, giám đốc Bảo tàng Động vật học và Vườn thực vật tại Bogor, Java, người cuối cùng đã xác định rằng con rồng là một con thằn lằn. Một số cuộc thám hiểm tiếp theo bao gồm một cuộc thám hiểm do W. Douglas Burden dẫn đầu đã bắt được 27 mẫu vật và kiểm tra ít nhất 70 cá thể vào năm 1926.

Các răng cưa trong răng giúp Komodos xé con mồi lớn thành những mảnh nhỏ hơn. Những miếng thịt từ bữa ăn của chúng bị kẹt giữa răng và sự phân rã của những miếng này thúc đẩy sự phát triển của một số vi khuẩn tự hoại cao.

Vi khuẩn thường gây ra cái chết của con mồi do nhiễm trùng nên ngay cả khi con mồi đã trốn thoát ban đầu, nếu nó bị cắn, nó có thể trở thành bữa ăn của Komodo. Rồng Komodo chống lại các vi khuẩn này, do đó, vết cắn của một con rồng khác sẽ không gây ra cái chết do nhiễm trùng.

Con rồng Komodo trưởng thành có màu xám hoặc màu đất sét; trẻ hơn nhiều màu sắc, với làn da sáng hơn, lốm đốm.

Con cái và con đực có màu giống nhau mặc dù con cái có nhiều màu đỏ hơn trên sườn.

Lưỡi chĩa màu vàng đặc trưng cho loài rồng Komodo.

Có thể phát hiện xác thịt mục nát của động vật chết từ khoảng cách 5 km.

Các mùi từ không khí được thu thập bằng lưỡi chĩa và đưa lên vòm miệng nơi các tín hiệu được tạo ra và gửi đến não.

Chế độ ăn của loài gấu chó

Võng mạc chỉ có các tế bào hình nón có thể phát hiện màu sắc nhưng yếu trong ánh sáng mờ

Có thể nhìn xa tới 300 m

Rất hữu ích trong việc săn bắt để phát hiện chuyển động

Rồng Komodo không bị điếc, nhưng chúng không dựa vào âm thanh nhiều như mùi.

Chỉ có thể nghe thấy một dải tần số nhỏ.

Đặc điểm nhận dạng rồng Komodo

Rồng Komodo là loài động vật có xương sống và do đó cần ít thức ăn hơn động vật có vú có kích thước tương tự.

Chúng là những kẻ ăn xác thối và động vật ăn thịt (ăn cả thịt và thịt sống)

Rồng con chỉ ăn côn trùng

Rồng Komodo nhỏ đến trung bình ăn thằn lằn nhỏ, động vật gặm nhấm, chim và trứng

Rồng lớn ăn thịt hoặc săn thú: ván hoang dã, hươu, trâu nước, rắn lớn và Komodos nhỏ hơn

Săn mồi bằng cách lén lút và kiên nhẫn hơn là đuổi theo con mồi

Một khi con mồi được phát hiện, một con rồng sẽ di chuyển cho đến khi chúng cách con mồi khoảng 1 m. Hàm đóng lại nhanh chóng và con mồi được giữ cho đến khi tất cả các chuyển động chấm dứt. Con mồi nhỏ hơn bị nuốt trọn, nhưng con mồi lớn hơn bị xé xác và nuốt chửng.

Tốc độ ăn vào có thể lên tới 2,5kg / phút

Có hiệu quả tiêu hóa cao (70-90%)

Tốc độ bình thường khoảng 4,8 km / giờ nhưng có thể chạy tới 14-20 km / giờ trong khoảng cách ngắn.

Khi đi bộ, đầu, cơ thể và đuôi lắc lư sang bên

Khi chạy, đuôi được giữ khỏi mặt đất và chân sau di chuyển theo hình vòng cung rộng

Là những người bơi lội mạnh mẽ

Rồng non là những người leo núi giỏi nhưng mất đi kỹ năng khi chúng già đi và nặng hơn.

Mùi

Chúng là động vật đơn độc; chúng thỉnh thoảng tụ tập quanh xác động vật hư thối và chỉ gặp nhau để sinh sản

Thể hiện hành vi lãnh thổ tối thiểu (nếu có)

Sự thống trị dựa trên kích thước và giới tính

Không hiển thị tình dục, nhưng tổng hợp để giao phối và thiết lập hệ thống phân cấp

Đe dọa bao gồm rít, roi đuôi, há miệng, cong lưng

Rít: một hành vi phòng thủ trong khi ăn và tấn công và thường được con cái sử dụng trong quá trình giao phối

Đánh nhau ở con đực thường dẫn đến những vết cắt nghiêm trọng và dẫn đến tử vong

xảy ra giữa tháng Năm và tháng Tám

Trưởng thành tình dục cho cả nam và nữ là 5 – 7 năm

Những con đực thống trị chiến đấu bằng cách vươn lên trên hai chân sau, sử dụng đuôi của chúng làm chỗ dựa và nắm lấy con đực khác bằng hai chân trước

Tán tỉnh rất ngắn gọn

Con cái thường tấn công con đực trong giai đoạn đầu tán tỉnh

Tỷ số giới tính trong tự nhiên là 3 đực : 1 cái

Con cái đẻ trung bình 18 quả trứng trong một cái hang trên mặt đất trong vài ngày vào tháng Chín

Con cái ly hợp mỗi năm một lần

Trứng có vỏ mềm, có da và ấp trong 2,5-8 tháng

Con non xuất hiện vào tháng Tư hoặc tháng Năm và nặng khoảng 80 g

Không có bằng chứng chăm sóc của rồng cha mẹ.

Không có nhiều rồng Komodo sống sót đến tuổi trưởng thành và chúng thường trở thành nạn nhân của nhiều kẻ săn mồi.

Nếu chúng sống sót đến 5 tuổi, chúng có thể dài tới 2,5 m và nặng 25 kg

Ước tính tuổi thọ rồng Komodo lên tới 50 năm trong tự nhiên.

Bảo vệ động vật hoang dã

Hành vi

Các mối đe dọa đến động vật hoang dã

Động vật hoang dã quý giá là một món quà của mẹ thiên nhiên. Thuật ngữ động vật hoang dã không chỉ bao gồm các động vật hoang dã mà còn chứa tất cả các sinh vật chưa được thuần hóa bao gồm chim, côn trùng, thực vật, thậm chí cả các sinh vật cực nhỏ. Để duy trì sự cân bằng sinh thái lành mạnh trên trái đất này, tất cả các sinh vật sống nên được đối xử quan trọng như con người.

Giao tiếp

Phá hủy môi trường sống làm giảm số lượng nơi mà động vật hoang dã có thể sống. Sự phân mảnh sinh cảnh phá vỡ một môi trường sống liên tục, thường chia các quần thể động vật hoang dã lớn thành nhiều nơi nhỏ hơn. Mất và phân mảnh môi trường sống do con người gây ra là nguyên nhân chính của sự suy giảm và tuyệt chủng loài.

Phá hủy và phân mảnh sinh cảnh ảnh hưởng đến động vật hoang dã vì tài nguyên dành cho động vật hoang dã bị giảm. Hơn nữa, sự phá hủy và phân mảnh tạo ra môi trường sống nhỏ hơn. Môi trường sống nhỏ hơn hỗ trợ các quần thể nhỏ hơn và các quần thể nhỏ hơn có khả năng bị tuyệt chủng.

Săn trộm để buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp là một mối đe dọa lớn đối với một số loài, đặc biệt là những loài có nguy cơ tuyệt chủng có địa vị làm cho chúng có giá trị kinh tế. Những loài như vậy bao gồm nhiều động vật có vú lớn như voi châu Phi, hổ và tê giác (được đổi lấy ngà , da và sừng tương ứng). Các mục tiêu săn trộm ít được biết đến bao gồm thu hoạch thực vật và động vật được bảo vệ để làm quà lưu niệm, thực phẩm, da, vật nuôi, v.v. Bởi vì những kẻ săn trộm có xu hướng nhắm vào các loài bị đe dọa và có nguy cơ tuyệt chủng, nạn săn trộm khiến cho dân số vốn đã nhỏ lại giảm hơn nữa.

Làm thế nào để bảo vệ động vật hoang dã?

Khó khăn trong việc bảo vệ động vật hoang dã bắt đầu từ đâu? Vậy, mọi người có thể làm gì để bảo vệ động vật hoang dã? Giống như bất kỳ nhiệm vụ lớn nào khác, mỗi người có thể bắt đầu với những bước nhỏ.

Điều thứ hai thường đúng với các loài sống trong các điểm nóng đa dạng sinh học, là các khu vực trên thế giới có nồng độ đặc biệt cao của các loài đặc hữu (loài không tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới).

Nhiều điểm nóng này nằm ở vùng nhiệt đới, chủ yếu là các khu rừng nhiệt đới như Amazon. Bảo tồn môi trường sống thường được thực hiện bằng cách dành các khu vực được bảo vệ như công viên quốc gia hoặc khu bảo tồn thiên nhiên. Ngay cả khi một khu vực không được tạo thành công viên hoặc khu bảo tồn, nó vẫn có thể được theo dõi và bảo trì.

Phá hủy và phân mảnh sinh cảnh

Để biết cách tập trung tốt nhất cho các nỗ lực bảo vệ động vật hoang dã, các tổ chức động vật hoang dã cần để mắt đến sự đến và đi của các sinh vật trong khu vực. Càng biết nhiều về thói quen, hành vi và dân số của động vật, càng có thể xác định tốt hơn các lĩnh vực có nhu cầu lớn nhất để tập trung nguồn lực của mình.

Người ta ước tính rằng, do các hoạt động của con người, tốc độ tuyệt chủng của loài hiện tại lớn hơn khoảng 1000 lần. Theo tổ chức IUCN, trong số tất cả các loài được đánh giá, hơn 27.000 loài có nguy cơ bị tuyệt chủng và cần được bảo tồn.

25% là động vật có vú.

14% là chim.

40% là động vật lưỡng cư.

Tuy nhiên, vì không phải tất cả các loài đã được đánh giá, những con số này có thể còn cao hơn. Một báo cáo của Liên Hợp Quốc năm 2023 đánh giá đa dạng sinh học toàn cầu đã ngoại suy dữ liệu IUCN cho tất cả các loài và ước tính rằng 1 triệu loài trên toàn thế giới có thể đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Tuy nhiên, vì tài nguyên có hạn, đôi khi không thể cung cấp cho tất cả các loài cần được xem xét bảo tồn. Quyết định loài nào bảo tồn là một chức năng của sự gần tuyệt chủng của loài, liệu loài đó có quan trọng đối với hệ sinh thái mà nó cư trú hay không và chúng ta quan tâm đến nó như thế nào.

Ô nhiễm Bảo tồn môi trường sống của động vật hoang dã Khảo sát động vật hoang dã Bảo tồn loài

Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Hiện Loài Mèo Hoang Dã Lớn Ở Rừng Aberdeenshire trên website Viec.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!